Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, chính trị gia
thiên tài mà còn là một nhà đạo đức chân chính bởi Người không ngừng tự
tu dưỡng để hướng tới chân - thiện - mỹ. Cuộc đời Người là tấm gương mẫu
mực về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư được cả thế giới ngưỡng
mộ và là biểu tượng sáng ngời cho các thế hệ người Việt Nam học tập, làm
theo. Từ khi bắt đầu hoạt động cách mạng cho đến khi trở thành người
lãnh đạo cao nhất của đất nước trong suốt 24 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã luôn đi tiên phong, nêu cao nguyên tắc đạo đức và là một tấm gương
đạo đức mẫu mực sáng ngời.

Bữa cơm tại chân đèo Re (Định Hóa - Thái Nguyên, tháng 10 năm 1948) của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Tổng Bí thư Trường Chinh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Lê Đức Thọ
Nhà báo Mỹ David Halbertam đã viết: “Hồ Chí Minh là một trong những
hình tượng đặc biệt của thời đại này: Ông có chất của Gandhi, Lê-nin
nhưng rất Việt Nam. Ông Hồ là người Việt Nam lịch lãm, khiêm nhường, nói
năng nhẹ nhàng, châm biếm hài hước và luôn mặc bộ quần áo giản dị nhất,
kiểu phục trang làm ông không xa lạ với người nông dân nghèo. Càng ở
cương vị cao hơn, ông càng giản dị và trong sạch hơn, dường như ông luôn
giữ được những giá trị trường tồn của người Việt Nam”(1).
Thời kỳ về nước hoạt động cách mạng ở Pắc Bó (Cao Bằng), lãnh tụ Hồ
Chí Minh phải ăn cháo bẹ, rau măng. Khi đi công tác, ngoài những đồ đạc
cần thiết mang theo, Người cho làm món “thịt rang Việt Minh” theo công
thức một thịt - một muối - một ớt. Như vậy đi tới đâu chỉ cần thổi cơm,
tìm thêm rau xanh nấu canh, rồi đưa “thịt” của nhà ra ăn. Cách mạng
Tháng Tám thắng lợi, trở về Thủ đô Hà Nội làm việc ở Bắc Bộ Phủ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cùng ăn cơm gạo đỏ, với anh em văn phòng, bảo vệ, lái
xe. Tháng 9/1945, sau khi kêu gọi đồng bào cả nước “sẻ cơm, nhường áo”
để cứu giúp dân nghèo, Người cũng cương quyết 10 ngày nhịn ăn một bữa.
Tháng 6/1946 sang thăm Pháp với tư cách là thượng khách của Chính phủ
Pháp, các đồng chí cùng đi ngạc nhiên vì giữa Paris hoa lệ mà Người vẫn
giữ những thói quen bình dân như ở trong nước. Trở về nước trên chiến
hạm Dumont d’Urville của Pháp trong gần một tháng một nhân viên được cử
tới phục vụ Người đã sửng sốt báo cáo với Hạm trưởng rằng: Ngài Chủ tịch
nói cứ để Ngài tự giặt lấy quần áo! Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở
mọi người rằng, nước ta còn nghèo, nên sống giản dị, tiết kiệm là thói
quen tốt, cần rèn luyện thường xuyên. Sự giản dị, phong thái ung dung ấy
của Người bắt nguồn từ một thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng.
Nó kết hợp nhuần nhị những nét cao đẹp của tính cách truyền thống dân
tộc với đạo đức cộng sản, nó có sức thu hút mạnh mẽ tình cảm tất cả mọi
người.
Quay lại chiến khu Việt Bắc, suốt những năm dài kháng chiến, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ở trong nhà tre mái lá, lán trại với các vật dụng là bàn
ghế gỗ, ống tre đựng tài liệu, máy chữ vài cuốn sách, bút giấy, hòn đá
cuội luyện gân tay… Di chuyển đến địa điểm nào, Người cũng động viên các
đồng chí cùng trồng rau, tăng gia sản xuất để cải thiện đời sống. Kháng
chiến thắng lợi, trở về Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh không ở
trong Phủ toàn quyền cũ bề thế, sang trọng mà chọn cho mình ngôi nhà của
một thợ điện, nơi mà mùa hè mặt sân xi măng xung quanh khiến nhiệt độ
trong nhà khá cao, rất nóng nực. Trung ương đề nghị xây nhà. Mấy năm sau
Người quyết định làm một căn nhà nhỏ như kiểu nhà đồng bào miền núi mà
Người đã từng ở trong những năm kháng chiến.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trước ngôi nhà sàn trong Khu Phủ Chủ tịch, tháng 4 năm 1960
Năm 1958, ngôi Nhà sàn bằng gỗ dổi hoàn thành, xung quanh có mành
che, tầng dưới để thoáng. Tầng trên chỉ có những đồ dùng rất quen thuộc:
Chiếc giường đơn giản trải chiếu cói, cái tủ nhỏ, bộ bàn ghế, trên bàn
để đèn, lọ hoa, chiếc máy thu thanh, cái quạt nan, mấy quyển sách. Trước
nhà là vườn hoa nhỏ, trồng nhiều loại hoa thơm. Phía ngoài là hàng rào
dâm bụt gợi nhớ hình ảnh quê hương xứ Nghệ. Trong cái ao nhỏ trước Nhà
sàn, Người nuôi cá, vừa cải tạo môi trường sống trong lành, cải thiện
đời sống vừa là một cách thư giãn sau giờ làm việc. Nhà sàn của Người
tạo ra nét bình dị gần gũi với mọi người dân Việt Nam ở khắp mọi miền Tổ
quốc. Không chỉ nơi ở đơn sơ, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày của Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng thật giản dị. Đôi dép cao su làm từ lốp xe cũ đã góp
phần tạo nên huyền thoại về một vị Chủ tịch Nước dân chủ nhất thế giới
như báo chí Ấn Độ từng ca ngợi. Rồi bộ quần áo lụa nâu, bộ quần áo kaki
đều có vết vá. Chỉ khi đi nước ngoài, Người mới đồng ý may bộ quần áo dạ
đen.
Bữa ăn thường ngày của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Khu Phủ Chủ tịch
cũng chỉ có một bát canh, một món xào hoặc thịt luộc, cá quả hoặc cá
bống kho gừng và cà dầm tương hoặc đường, ớt. Thức ăn không bao giờ để
thừa và đặc biệt là sau bữa ăn, Người thường tự mình sắp xếp gọn gàng
bát đĩa trên bàn để các đồng chí phục vụ đỡ vất vả. Có lần, đồng chí
phục vụ đưa lên đĩa cá anh vũ - một loại cá quý thường chỉ có ở ngã ba
sông Bạch Hạc (Việt Trì). Bác bảo: “Cá ngon quá, thế mà chú Tô (Thủ
tướng Phạm Văn Đồng) lại đi vắng! Thôi, các đồng chí để đến chiều đồng
chí Tô về cùng thưởng thức”. Thấy Bác khen anh em gửi tiếp cá đến nhưng
thấy món cá hôm trước lại xuất hiện, Người không hài lòng: “Bác có phải
là vua đâu mà phải cung với tiến ?” rồi kiên quyết không ăn nữa(2).
Tại một phiên họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê
bình thẳng thắn: “Tôi đề nghị các vị Bộ trưởng rèn luyện cho mình có đôi
chân hay đi, đôi mắt hay nhìn, cái óc hay nghĩ. Chính phủ ta tuy đã cố
gắng nhưng phải cố gắng nhiều hơn nữa. Trong khi người công nhân, người
nông dân, người chiến sỹ hy sinh làm tròn nhiệm vụ của mình, còn chúng
ta những người lãnh đạo có khi lại làm chưa hết nhiệm vụ của mình”(3).
Chính vì vậy nên trong khoảng thời gian từ 1954 - 1969, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có hơn 900 chuyến đi thực tế cơ sở. Khi đi thăm các địa phương,
Người thường nhắc anh em phục vụ chuẩn bị cơm mang theo, hễ lúc nào
thuận tiện thì dừng lại ăn. Người nói với anh em đi cùng: Người ta dọn
ra một bữa sang. Bác cháu mình có khi chẳng ăn và chẳng ăn hết. Nhưng
rồi để lại cái tiếng Bác Hồ đến thăm cũng làm cơm thế này, thế nọ, cũng
điều động người làm mất thời gian…
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm khi thăm các địa phương, đơn vị là để
nắm tình hình thực tế và góp ý, nhắc nhở về các công việc, chứ không
phải xuống dự tiệc tùng, gây tốn kém. Có tỉnh mặc dù đã được báo trước
là Người có mang cơm theo nhưng vẫn sắm sửa cỗ bàn thịnh soạn và Người
đã phê bình rất nghiêm khắc. Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
của Mỹ năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh cương quyết đề nghị nhà bếp cho ăn
cơm độn ngô 50% như tất cả nhân dân. Hằng ngày, Thông tấn xã Việt Nam
đều đưa bản tin lên, sau khi xem xong, Người giữ lại những bản tin cần
thiết, còn lại chuyển cho Văn phòng Phủ Chủ tịch để anh em làm phong bì
tiết kiệm hoặc dùng làm giấy nháp. Ngày 10/5/1969, Người đã viết toàn bộ
đoạn mở đầu bản Di chúc lịch sử bằng mực xanh vào mặt sau tờ Tin tham
khảo đặc biệt số ra ngày 03/5/1969.
Phong cách sống bình dân, giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
đơn thuần là cần kiệm, là tấm lòng sẻ chia và tinh thần đồng cam cộng
khổ với đồng chí, đồng bào mà còn thể hiện nhiều ý nghĩa nhân văn rất
cao đẹp. Năm 1959, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô mời Chủ tịch Hồ Chí
Minh sang nghỉ hè một tháng. Trước khi về nước, Người đã gửi lại thủ quỹ
Đảng Cộng sản Liên Xô một bức thư kèm theo 5.000 rúp mà bên bạn biếu
Người và đồng chí thư ký để tiêu vặt nhưng Người đã không sử dụng!
Mùa hè 1967, khi biết tình hình các chiến sỹ trực chiến trên nóc Hội
trường Ba Đình thiếu nước uống, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bảo đồng chí thư
ký rút khoản tiền tiết kiệm của Người (bao gồm tiền lương, tiền nhuận
bút bài viết) được hơn 25.000 đồng (lúc đó tương đương khoảng 60 lạng
vàng) chuyển cho Bộ Tư lệnh phòng không để mua nước ngọt cho các chiến
sỹ trực chiến trên toàn miền Bắc.
Ngày 15/7/1969, Charles Fournio, nhà báo Pháp cuối cùng được phỏng
vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng kiến và kể lại: “Khi nghe nói đến
những dự kiến tổ chức mừng thọ Người 80 tất cả mọi biểu hiện chú ý đặc
biệt đến Người và nói rõ là không được bày vẽ gì nhân dịp này, chừng nào
còn cần thêm tiền để làm nhà trẻ, trường học, bệnh viện và thư
viện”(4).
Tại kỳ họp Quốc hội Khóa II lần thứ 6, các đại biểu Quốc hội đã nhất
trí trao tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh Huân chương Sao vàng. Tuy rất xúc
động nhưng Người nhất quyết từ chối vì: Tự xét chưa có công huân xứng
đáng với sự tặng thưởng cao quý của Quốc hội. Năm 1967, Đảng, Chính phủ
và nhân dân Liên Xô quyết định tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh Huân chương
Lê-nin cao quý nhất của Nhà nước Xô viết nhưng Bác cũng từ chối, hẹn chờ
đến ngày đất nước Việt Nam thống nhất.
Cho đến lúc đi xa, trên ngực áo Người vẫn không một tấm Huân chương.
Và bởi thế: “Cuộc đời Hồ Chủ tịch trong như ánh sáng. Đó là tấm gương
tuyệt vời về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ,
lòng nhân đạo và yêu mến nhân dân thắm thiết, đạo đức chí công vô tư,
tác phong khiêm tốn, giản dị. Tư tưởng và đạo đức cao cả của Người mãi
mãi soi sáng và nâng cao tâm hồn chúng ta”(5).
Chú thích:
1, Ho - David Haiberstam. NXB Random New York
2, Hồ Chí Minh, con người phong cách. NXB Lao động 1999, tr 52
3, Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử. NXB Chính trị quốc gia 2009. Tập X, tr 157
4, Hồ Chí Minh - một người Châu Á của mọi thời đại. NXB Chính trị quốc gia 2010, tr 728
5, Hồ Chí Minh - tiểu sử. NXB Lý luận chính trị 2006, tr 728
Theo Báo Công an nhân dân