Năm
2004, khi xuất bản cuốn “Hồi ký không tên" lần đầu, cựu dân biểu 3
nhiệm kỳ chế độ Sài Gòn, cựu Tổng trưởng Thông tin chính quyền Dương Văn
Minh Lý Quí Chung đã kết luận: “30 năm sau nhìn lại ngày 30-4 mới thấy
rõ hơn giá trị của ngày giải phóng. Nếu không có ngày đó - chấm dứt hoàn
toàn sự can thiệp của người Mỹ, giành được độc lập và thống nhất cho xứ
sở - thì chắc chắn đất nước hôm nay không an bình và phát triển, ổn
định như đang có”. Nhà báo Lý Quí Chung cũng khẳng định rằng nếu như các
điều khoản của Hiệp định Paris được đem ra thi hành, ở miền Nam có một
chính phủ liên hiệp thì chắc chắn cũng sẽ “là sự tiếp nối của cuộc xung
đột dưới một hình thái mới, đầy hỗn loạn và bất ổn, có thể lại đổ máu và
chết chóc; “bàn tay lông lá” của người Mỹ vẫn có điều kiện xộc vào gây
chia rẽ hận thù giữa người Việt với người Việt; kinh tế của miền Nam vẫn
lệ thuộc, tồn tại bằng viện trợ nhỏ giọt của các cường quốc đầy những ý
đồ thôn tính; còn miền Bắc có lẽ vẫn sẽ khó khăn, vẫn ở trong tình
trạng đối phó chiến tranh vì phải tiếp tục dồn sức chi viện cuộc đấu
tranh ở miền Nam. Nhìn đất nước nối liền từ Nam chí Bắc hiện nay, đến
bây giờ tôi vẫn tưởng nằm mơ[1]”.
Vậy nên, ngày 30-4-1975 sẽ mãi mãi được ghi vào lịch sử của dân tộc
Việt Nam như là một trong những sự kiện vĩ đại nhất của dân tộc. Đó là
ngày Tổ quốc thống nhất, hòa bình sau bao nhiêu năm chiến tranh đau khổ
với nhiều mất mát hy sinh. Những con người và cả lòng người bao năm lìa
tan nay lại hợp, đó là niềm vui lớn của dân tộc Việt Nam. Để có ngày
chiến thắng 30-4, cả dân tộc Việt Nam đã chịu rất nhiều mất mát, hy
sinh. Chiến thắng 30-4-1975 là chiến thắng của sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc và đoàn kết quốc tế.
1. Chiến thắng 30-4: nhân tố quyết định từ chiến trường
Kể
từ khi người Mỹ can dự vào tình hình Việt Nam, quân số của người Mỹ đã
tăng lên không ngừng. Tới tháng 12-1967, quân số lính Mỹ đạt 497.498
quân, kết hợp với 60.276 lính quân đội các nước đồng minh của Mỹ (không
tính lính Việt Nam Cộng hòa), nâng tổng quân số nước ngoài trên chiến
trường Việt Nam đạt 557.774 lính và số lượng lính Việt Nam Cộng hòa đạt
634.475 lính, tăng 200.000 lính so với năm 1966. Tới ngày 31-03-1968,
tổng quân số liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa đạt 1.375.747 quân.

Năm
1966, sau khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giành hàng loạt các
chiến thắng, Hoa Kỳ bắt đầu đề cập tới giải pháp đàm phán hòa bình.
Riêng trong 03 tháng đầu năm 1967, liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa đã
tổ chức 884 cuộc hành quân từ cấp tiểu đoàn trở lên. Trong 3 tháng đầu
1967, Không quân của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tiến hành 151.044 phi xuất
(trong đó phi xuất hành quân là 30.231 cuộc) và 37.851 cuộc hải xuất
oanh tạc và do thám miền Bắc. Trong giai đoạn 1966-1967, Mỹ và Việt Nam
Cộng hòa bắt đầu sử dụng chất độc hóa học để khai quang các khu vực của
Quân Giải phóng.
Để
tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã huy động: “70% lục quân,
60% lính thủy đánh bộ, 40% hải quân và 60% không quân của nước Mỹ, 6,5
triệu lượt thanh niên Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt
nam, cùng với 22.000 xí nghiệp trên đất Mỹ trực tiếp phục vụ chiến tranh
xâm lược Việt Nam[2]”.
Ngoài ra, Hoa Kỳ còn huy động quân đội các nước đồng minh của họ tham
chiến tại Việt Nam như: Thái Lan, Philippines, Australia, New Zealand và
Hàn Quốc với quân số lúc đông nhất lên tới 70.000 cùng khoảng 600.000
lính Quân đội Sài Gòn (lúc đông nhất).
Trước
lực lượng quân sự hùng hậu của Hoa Kỳ và các nước đồng minh, các lực
lượng kháng chiến Việt Nam đã phải chịu rất nhiều tổn thất nhưng cuối
cùng đã buộc người Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán chấm dứt chiến tranh.
2. Chiến thắng sức chịu đựng “chân trần” và tinh thần “chí thép”
Trong
cuộc chiến đấu gian khổ này, đã có gần 850 nghìn liệt sỹ hy sinh. Cả
nước có gần 45 nghìn Bà mẹ Việt Nam anh hùng, trong số đó có những người
mẹ như mẹ Nguyễn Thị Thứ ở Quảng Nam có 9 con đẻ, 1 con rể và 2 cháu
ngoại là liệt sỹ, má Nguyễn Thị Rành ở Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh có 8
con trai và 2 cháu là liệt sỹ v.v…

Nếu
như trong Chiến tranh thế giới lần thứ Hai, một cuộc chiến tranh được
coi là tàn khốc nhất trong lịch sử nhân loại, mỗi người Đức phải chịu
27kg bom đạn và mỗi km vuông chịu 5,4 tấn bom đạn; mỗi người Nhật chịu
1,6kg và mỗi km vuông 0,43 tấn thì khi quân đội Mỹ ném bom miền Bắc Việt
Nam, mỗi người dân miền Bắc phải chịu 45,5 kg bom đạn và mỗi km vuông
phải gánh chịu 6 tấn[3]…
Trong
cuộc chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã phun rải 80 triệu lít chất độc hóa
học, 61 phần trăm là chất da cam, chứa 366 kg dioxin xuống 26 nghìn
thôn bản ở miền Nam Việt Nam với diện tích 3,06 triệu ha. Gần 25% tổng
diện tích miền Nam từ Bắc Trung Bộ đến Tây Nam bộ đều bị ảnh hưởng,
trong đó Đông Nam Bộ là vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất với 56% diện tích
tự nhiên bị phun rải[4].
Đây được xem là cuộc chiến tranh hóa học có quy mô lớn nhất, gây hậu
quả thảm khốc nhất trong lịch sử loài người. Đã có 4,8 triệu người Việt
Nam bị phơi nhiễm chất độc dioxin và 3 triệu người là nạn nhân chất độc
da cam v.v…
Ở miền Nam,
chỉ trong 4 năm, từ năm 1955-1958, cả miền Nam tổn thất 9/10 số cán bộ,
đảng viên. Ở Nam Bộ: “Khoảng 7 vạn cán bộ, đảng viên ta bị địch giết;
gần 90 vạn cán bộ, nhân dân bị bắt, bị tù đày, gần 20 vạn bị tra tấn
thành tật, chỉ còn khoảng 5 nghìn so với 60 nghìn đảng viên trước đó.
Bến Tre còn 162 đảng viên, Tiền Giang chỉ còn 92, Gia Định, Biên Hòa mỗi
nơi chỉ còn 1 chi bộ đảng. Ở Khu V khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện
ủy viên, 70% chi ủy viên xã bị bắt, bị giết, có tỉnh chỉ còn 2-3 chi bộ,
12 huyện đồng bằng không còn cơ sở Đảng. Riêng Trị - Thiên chỉ còn
160/23.400 đảng viên trước đó[5]”.
Thế
nhưng, trước sự khủng bố, giết chóc của kẻ thù, người dân vẫn kiên
quyết bám đất, giữ làng. Rất nhiều các phong trào của người dân ở miền
Nam đã góp phần không nhỏ cho sức mạnh để chiến thắng, đó là các phong
trào: “Bám đất, giữ làng”, “Một tấc
không đi, một li không dời”, “Thi đua giết giặc lập công”, “Tìm Mỹ mà
đánh, tìm ngụy mà diệt”...v.v…
Hàng
loạt các nhà tù, các vụ thảm sát diễn ra trên khắp miền Nam. Những nhà
tù như Phú Lợi, Côn Đảo, Phú Quốc…đã trở thành những cái tên ám ảnh, nỗi
sợ hãi của nhân loại tiến bộ và là nơi thử thách cao nhất sức chịu đựng
của con người. Hồi ký của bà Nguyễn Thị Bình kể lại: “Chúng tôi
đi thăm những nơi đã giam cầm những chiến sỹ cách mạng, từ “nhà bò” thời
thực dân Pháp đến “chuồng cọp” thời kỳ đế quốc Mỹ. Mặc dù đã dược dọn
dẹp nhưng những cảnh đày đọa tàn nhẫn anh chị em tù chính trị vãn hiện
ra mồn một trước mắt chúng tôi. Tôi càng thấm thía rằng mình đang được
hưởng kết quả từ bao nhiêu hy sinh xương máu của các đồng chí đi trước[6]”.
Ở miền Bắc,
trong khốc liệt của chiến tranh ấy, miền Bắc vẫn là hậu phương vững
chắc chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền
Nam. Các phong trào vì miền Nam
diễn ra rộng khắp trên toàn miền Bắc như: “Ba nhất”, “Ba sẵn sàng”, “Ba
đảm đang”, “Hai tốt”, “Làm nghìn việc tốt”; “Tay cày, tay súng”, “Tay
búa, tay súng”, “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”,
“Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước” v.v…
Chính
cuộc chiến đấu hy sinh và chịu nhiều mất mát khổ đau của người dân Việt
Nam trên cả nước đã chinh phục trái tim, khối óc của những con người
yêu tự do và hòa bình trên thế giới và làm cho kẻ thù bị khuất phục.
3. Chiến thắng từ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế
Rất
nhiều các nhà lãnh đạo trên thế giới đã lên tiếng tố cáo những tội ác
mà người Mỹ gây ra ở Việt Nam và kêu gọi Mỹ ngồi vào bàn đàm phán. Đầu
tháng 3-1968, Tổng thư ký Liên Hiệp quốc U.Thant kêu gọi Mỹ chấm dứt ném
bom miền Bắc và coi đây là điều kiện để tổ chức đàm phán. Ngày
14-5-1968, trong bài phát biểu tại Trường Đại học Alberta (Canada) ngài
U. Thant - Tổng thư ký Liên hiệp quốc đã “tỏ rõ lập trường ủng hộ quan
điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ thực hiện
một cuộc ngưng oanh tạc toàn diện vô điều kiện miền Bắc[7]”.
Lãnh đạo nhiều nước trên thế giới bằng cách mày hay cách khác bày tỏ sự
ủng hộ đối với Việt Nam từ Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Tư, Anlgéri,
Tanzania…Trong Hồi ký của mình, bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Bộ trưởng
Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam,
Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam tại Hội nghị Paris cho biết khi bà tới thăm Ấn Độ theo lời mời
của Thủ tướng Ấn Độ, Lãnh sự của chính quyền Sài Gòn ở Ấn Độ đã phản
đối. Chính phủ Ấn Độ trả lời chính thức “Mời ai là quyền của chúng tôi[8]”.

Độc
lập chủ quyền, thống nhất quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ là thiêng liêng
nên khi những tiếng nói chính nghĩa cất lên sẽ đánh thức lương tri nhân
loại, trong đó có lòng yêu hòa bình, công lý của người dân Mỹ. Cộng đồng
người Việt đông đảo ở nước ngoài đã ủng hộ hết mình cho cuộc kháng
chiến của người dân trong nước. Trong suốt thời gian đàm phán Paris, cả
hai đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam đã được Đảng Cộng sản Pháp và bà con người Việt
sinh sống và học tập tại Pháp giúp đỡ tận tình. Nhiều nhà báo tiến bộ
trên thế giới đã chấp nhận hy sinh, đi vào vùng giải phóng để phản ánh
rõ nhất cuộc chiến tranh của Nhân dân Việt Nam như Madeleine Riffaud
(Pháp), Wilfred Burche (Úc), Dimitrova (Bulgary), Vanessa (Ba Lan). Nhà
báo Pháp Madeleine Riffaud đã thốt lên một câu tự đáy lòng “Việt Nam là
một phần của cuộc đời tôi”.
Những
phóng viên dũng cảm của báo New York Times như Seymour Hersh, Don Luce
đã giúp đưa ra ánh sáng và công luận quốc tế vụ thảm sát Mỹ Lai, “chuồng
cọp Côn Đảo" v.v…Nhờ sự dũng cảm của Seymour Hersh, phóng viên báo New
York Times mà thế giới đã biết tới thảm sát Mỹ Lai. Cũng vậy, nhờ nhà
báo Don Luce mà sáng 02-7-1970, cả thế giới đã chấn động khi thiên phóng
sự điều tra "Tố cáo vụ chuồng cọp Côn Đảo" xuất hiện đồng loạt trên báo
Tin sáng Sài Gòn và tạp chí Time. Lần đầu tiên, sự thật “rùng
mình” về nơi đày ải, giam cầm tù nhân dã man, phi nhân tính đã bị bóc
trần trên mặt báo, cái mà chính phủ Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã không
ngớt che đậy và bưng bít. Những hình ảnh ghê rợn của các nhục hình tra
tấn tù nhân ở nhà tù Côn Đảo đã làm không chỉ người dân trên thế giới,
trong đó có người dân Mỹ kinh tởm bộ mặt thật của cuộc chiến tranh mà
còn làm cho chính giới Mỹ một phen rúng động.
Những
dân biểu dũng cảm trong Hạ viện Hoa Kỳ là ông Williamm R. Anderson và
ông August Hawkins đã ra Côn Đảo điều tra về "Vụ chuồng cọp Côn Đảo" và
trình lên Hạ nghị viện. "Vụ chuồng cọp Côn Đảo" sau đó đã bị đem ra chất
vấn ở Hạ nghị viện Mỹ cũng như bị tố cáo trên các tờ báo lớn gây ra một
làn sóng phản đối chiến tranh ở Việt Nam trên toàn thế giới.
Nhà báo Lý Quí Chung trong Hồi ký không tên
cho biết khi ông cùng đoàn chế độ Sài Gòn do Trung tướng Trần Văn Đôn
dẫn đầu đi thăm các nước với ý định của nhà cầm quyền để “giải độc” cho
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Đến nước Anh, Công đảng (đảng cầm quyền
khi ấy ở nước Anh tiếp đoàn) tại Westminster, trụ sở quốc hội Anh. Ngoài
các lãnh tụ của đảng có hai đại diện đoàn thanh niên Công đảng. Chủ nhà
phát biểu xong, đến đoàn Sài Gòn chưa kịp phát biểu đã bị một trong hai
thanh niên đứng dậy phủ nhận tính cách đại diện của đoàn Việt Nam Cộng
hòa và khẳng định: “Đại diện hợp pháp duy nhất của miền Nam Việt Nam là
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam[9]”.
Trên ngực cả hai thanh niên đều đeo huy hiệu của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam. Cả hai thanh niên Công đảng Anh đã đồng loạt
đứng dậy hô to khẩu hiệu phản đối đoàn chế độ Sài Gòn và hoan hô Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Chiến
thắng 30-4, dân tộc Việt Nam không quên những người Mỹ yêu chuộng tự
do, hòa bình đã tự thiêu để phản đối chiến tranh, phản đối quân đội Mỹ
gây tội ác ở Việt Nam như: Norman Morrison, Roger Allen LaPorte, cụ bà
Alice Herz v.v… Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam không chỉ diễn
ra sôi nổi trong lòng nước Mỹ mà những con người yêu chuộng hòa bình từ
nước Mỹ đã lên đường sang tận Việt Nam để bày tỏ sự ủng hộ. Đã có những
bức thư bày tỏ sự thông cảm với cuộc chiến đấu của Nhân dân Việt Nam
chứa chan tình hữu ái: “Gửi Nhân dân Việt Nam, những người phải chờ đợi
hòa bình quá lâu, gửi tất cả người Mỹ ở Việt Nam, gửi nhân dân toàn thế
giới. Chúng tôi là những người Mỹ đến Việt Nam để phản đối sự can thiệp
quân sự của Hoa Kỳ. Chúng tôi yêu cầu người Mỹ ngưng ngay việc sát hại
người Việt Nam[10]”. Đó là lời mở đầu “Bức tâm thư gửi đến nhân dân Việt Nam” của Đoàn đại biểu nhân dân phản chiến Mỹ
do mục sư M.J. Muste 81 tuổi dẫn đầu và lần đầu đến Việt Nam. Khi sang
Việt Nam, mục sư Muste phát biểu: “Chúng tôi rất thán phục và đồng thời
cũng cảm thấy xót xa cho dân tộc các bạn bị bó buộc phải tiến hành một
cuộc chiến đấu sống còn chống lại những kẻ xâm lược hùng mạnh nhất thế
giới[11]”.
Và, “…đến bây giờ họ vẫn thủy chung với sự nghiệp đấu tranh của Việt
Nam…Những người bạn quốc tế ấy là những người sống có lý tưởng, hạnh
phúc của họ là được làm theo lý tưởng[12]”.
Nhớ
về sự kiện trọng đại này, bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước,
khi ấy là Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã xúc động ghi trong hồi ký
của mình rằng khi đặt bút ký hiệp định lịch sử này bà đã vô cùng xúc
động, nghĩ đến “đồng bào, đồng chí, đến bạn bè ở cả hai miền Nam Bắc…
(…) là ân tình sâu đậm mà cả thế giới giành cho cuộc chiến đấu anh dũng
của nhân dân ta[13]”.
4. Chiến thắng của tình dân tộc, nghĩa đồng bào
Chiến
thắng 30-4 là chiến thắng được cộng hưởng từ nhiều nhân tố, trong đó
không thể không kể tới những người yêu nước chân chính sống trong lòng
địch, không thể không nhớ tới công lao của mọi giới đồng bào, của đồng
bào các dân tộc, tôn giáo.
Những
tên tuổi các chức sắc tôn giáo đã trở thành quen thuộc với các giới
đồng bào trong như hòa thượng Thích Quảng Đức, tthượng tọa Thích Trí
Quang, linh mục Nguyễn Ngọc Lan v.v…
Cuộc
tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức để phản đối chính quyền Ngô
Đình Diệm đàn áp Phật giáo đã làm cho cả thế giới bàng hoàng. Tổng thống
Hoa Kỳ John F. Kennedy đã phải thốt lên rằng chưa có bức ảnh nào ám ảnh
ông một cách kinh khủng như vậy. Thượng tọa Thích Trí Quang là người có
tác động quan trọng đến việc nhận chức và nhanh chóng đầu hàng của ông
Dương Văn Minh vào trưa ngày 30-4-1975. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan thì là
một người đặc biệt, người mà như ông Trần Văn Giàu, Nguyên Bí thư Thành
ủy Sài Gòn - Gia Định đã viết: “Trong
phong trào đấu tranh chống Mỹ cứu nước ở thành phố Sài Gòn anh được
biết đến như một người xung trận quả cảm, đồng hành với trí thức, học
sinh, sinh viên, phật tử và đồng bào nói chung[14]”.

Giữa
đô thành Sài Gòn trong những năm tháng chiến tranh đã xuất hiện hàng
loạt những phong trào của trí thức miền Nam lên án chiến tranh, kêu gọi
hòa bình. Các phong trào tiêu biểu nổi tiếng có thể kể tới như: “Phong
trào hòa bình”, “Ủy ban cứu tế và bảo vệ tính mạng, tài sản của dân
chúng”, “Hát cho đồng bào tôi nghe”, “Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi
phụ nữ”, “Ủy ban phụ nữ đòi quyền sống”, “Phong trào dân tộc tự quyết”,
“Ủy ban vận động hòa bình”, “Lực lượng quốc gia tiến bộ”, các phong trào
đấu tranh của người Hoa ở Sài Gòn. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết,
một tổ chức đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris đã ra đời, đó là “Tổ
chức nhân dân đòi thi hành Hiệp định Paris” quy tụ rất nhiều tên tuổi
lớn của giới trí thức miền Nam v.v…
Trong
mỗi người Việt Nam đều chảy chung dòng máu yêu nước của cha ông truyền
lại từ ngàn xưa, vì vậy, có thể vì lý do này hay lý do khác, đã có lúc
họ đứng ở chiến tuyến khác nhau. Thế nhưng, khi gặp những điều kiện
thuận lợi, tinh thần yêu nước trong mỗi người Việt Nam lại sống lại và
giúp họ có những quyết định sáng suốt. Hành động thức thời của ông Dương
Văn Minh sớm đầu hàng đã góp phần giữ cho một Sài Gòn nguyên vẹn. Những
người trong chính quyền Dương Văn Minh như Phó Tổng thống Nguyễn Văn
Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, Phụ tá, sau là quyền Tổng Tham mưu trưởng
Nguyễn Hữu Hạnh, Giám đốc Cảnh sát Sài Gòn - Gia Định Triệu Quốc Mạnh là
những người đã xuất hiện rất đúng lúc, trong một thời điểm quyết định
góp phần làm cho cuộc chiến vốn đã khốc liệt bớt mất mát, khổ đau v.v…
Kết luận: Trong Di chúc để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết, đến ngày thống nhất nước nhà, Người “sẽ
đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh
hùng; thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý
của chúng ta. Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn
các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm
châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
ta[15]”.
Còn nhớ, sau ngày 30-4-1975, vừa đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất,
ông Lê Duẩn, Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam đã nói: “Thắng lợi này
là thắng lợi của cả dân tộc Việt Nam chứ không của riêng ai”. Tinh thần
ấy cũng là phát biểu của Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn - Gia Định
Trần Văn Trà trong buổi tiếp và trả tự do cho toàn bộ nội các Dương Văn
Minh ngày 02-5-1975: “Trong cuộc chiến đấu lâu dài này không có ai là kẻ
thắng ai là kẻ bại…Toàn quân và toàn dân Việt Nam là người chiến thắng,
chỉ có đế quốc Mỹ xâm lược là kẻ chiến bại[16]”.
Một nghìn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây cũng không
một thế lực nào có thể khuất phục và chia cắt đất nước Việt Nam. Tinh
thần đại đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng
nghìn năm lịch sử, được trui rèn trong những thử thách mất còn của đất
nước sẽ là những giá trị tiềm tàng tạo nên sức mạnh khi Tổ quốc lâm
nguy. Đại đoàn kết dân tộc, sự ủng hộ của bạn bè quốc tế sẽ là sức mạnh
vĩ đại để Việt Nam ngày càng vững mạnh và phát triển.
TS. VŨ TRUNG KIÊN
Khoa Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Khu vực II.
[1] Lý Quí Chung (2004), Hồi ký không tên, Nxb Trẻ, tr. 449
[2] Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 324
[3] Xem: Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 329-320
[4] Xem: Nhiều tác giả (2012), Nỗi đau da cam, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2012
[5] Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 321
[6] Nguyễn Thị Bình (2012), Gia đình, bạn bè, đất nước, Nxb Tri thức, tr. 191
[7] Trung tâm lưu trữ quốc gia II (2012), Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn, Nxb Chính trị quốc gia, t1, tr. 75
[8] Nguyễn Thị Bình (2012), Gia đình, bạn bè, đất nước, Nxb Tri thức, tr. 117
[9] Lý Quí Chung (2004), Hồi ký không tên, Nxb Trẻ, tr. 188
[10] Nguyễn Hữu Thái (2018), Sài Gòn có một thời như thế, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 175
[11] Nguyễn Hữu Thái (2018), Sài Gòn có một thời như thế, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 178
[12] Nguyễn Thị Bình (2012), Gia đình, bạn bè, đất nước, Nxb Tri thức, tr. 181
[13] Nguyễn Thị Bình (2012), Gia đình, bạn bè, đất nước, Nxb Tri thức, tr. 135
[15] Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 509
[16] Nguyễn Hữu Thái (2018), Sài Gòn có một thời như thế, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 300-301
Nguồn: https://codotphcm.com/tintuc/chitiet/304-chien-thang-cua-suc-manh-dai-doan-ket-527.html?fbclid=IwAR2pfF9khmVrrmZN6HfwTgCula9MmC3odr1Rvq3U2Xm4vPt_2VPy_87G4O4